Thứ Ba, 6 tháng 12, 2011

Hình sự cá nhân 2- Tội cướp tài sản

        Bài tập cá nhân Hình sự 2- tuần 2
Đề bài:
Lợi dụng đêm tối ít người qua lại, với ý định chiếm đoạt tài sản của người đi đường,A dùng dây thép căng ngang đường. Hai đầu dây đều được cột chặt vào cây ven đường. Chị N đi xe máy qua đoạn đường này bị dây thép hắt ngược trở lại,nằm ngất xỉu. A từ chỗ nấp ở bụi cây ven đường chạy ra tháo dây chuyền,nhẫn,đồng hồ,túi xách của N. Tổng tài sản trị giá 4.800.000đ. Sau đó,N được những người qua đường đưa đi bệnh  viện,được cấp cứu kịp thời nên không chết. Tổng số tiền viện phí là 2.700.000đ, tổn hại sức khỏe của N không đáng kể.Xe máy của N bị hỏng,tiền sửa chữa là 800.000đ.
Hỏi:
1.Xác định tội danh và định khung hình phạt cho hành vi của A?
2. Giả sử N bị thương với thương tật là 61% thì trách nhiệm hình sự của A được xác định như thế nào?


 1.Xác định tội danh của A và định khung hình phạt cho A?
1.1: Xác định tội danh của A:
- A phạm tội cướp tài sản theo quy định Điều 133 BLHS 1999,bởi những hành vi phạm tội của A đã CTTP cướp tài sản theo Điều 133.
+ Khách thể tội phạm:
   Tội cướp tài sản xâm phạm đến hai quan hệ là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản.Bằng hành vi phạm tội của mình, người phạm tội đã xâm phạm đến trước hết là thân thể, tự do thân thể và tính mạng của người bị hại để có thể xâm phạm đến tài sản của họ. Mục đích xâm phạm tài sản là mục đích chính nên tội cướp tài sản được xếp vào nhóm các tội xâm phạm sở hữu . Sự xâm hại một trong hai quan hệ này không làm rõ tính nguy hiểm của hành vi.
  A có mục đích chiếm đoạt tài sản của người đi đường nên đã sử dụng thủ đoạn để đạt được mục đích đó. Chị N chỉ là một người đi qua đoạn đường mà A đã chờ sẵn để cướp tài sản . A hành động như thế để cướp của những ai đi qua đó mà mắc phải bẫy của A
+ Mặt khách quan của hành vi:
   Theo quy định của khoản 1 Điều 133- CTTP cơ bản của tội cướp, các nhà làm luật đã quy định về hành vi khách quan của tội cướp là: sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc hành vi khác. Trong đó,ta thấy: sử dụng vũ lực là hành vi mà người phạm tội đã tác động trực tiếp đến thân thể nạn nhân như: đâm, bắn, chém…Còn đe dọa dùng vũ lực là dùng lời nói để tác động vào ý thức của nạn nhân,để họ sợ hãi mà phải giao tài sản ra. Còn dử dụng thủ đoạn khác là  sử dụng hành vi tấn công để nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Đây là hành vi khách quan của tội cướp mà không là dạng dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực.
    Hành vi của A không tác động trực tiếp vào cơ thể nạn nhân, cũng không sử dụng lời nói để đe dọa . A đã buộc dây ngang đường để người đi qua mắc phải, ngã xe và lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Như vậy, hành vi của A là sử dụng hành vi khác làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được, bởi nạn nhân N đã bị ngã xe và ngất xỉu.
 +  Mặt chủ quan của tội phạm:
      Người phạm tội không chỉ cố ý thực hiện hành vi phạm tội mà còn có mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới CTTP cướp tài sản, bởi tội cướp tài sản cũng xâm phạm đến quyền nhân thân, nên cần xác định rõ mục đích chiếm đoạt tài sản để không nhầm lẫn tội cướp tài sản với các tội xâm phạm đến sức khỏe,tự do thân thể, tính mạng của người khác. Như vậy, ý thức chiếm đoạt tài sản phải có trước khi người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm đến nạn nhân,chứ không phải là khi người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm đến nạn nhân và tiến hành lấy tài sản khi nạn nhân đã chết hay bỏ chạy để lại tài sản.
      A đã có ý định chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện hành vi buộc dây ngang qua đường. Như vậy, tội phạm cướp tài sản của A được thể hiện rất rõ, bởi ý định chiếm đoạt tài sản của A hình thành trước khi chị N bị ngã ngất xỉu.
      Lỗi của người phạm tội cướp tài sản hiển nhiên phải là lỗi cố ý trực tiếp,bởi  người phạm tội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi cướp, mong muốn hậu quả đó xảy ra và tiến hành những phương tiện, thủ đoạn để hậu quả đó xảy ra.
+ Chủ thể của tội phạm cướp tài sản:
Người phạm tội cướp tài sản phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên và khi thực hiện hành vi phạm tội không mắc các bệnh thần kinh hay các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi. Tội cướp tài sản có mức cao nhất của khung hình phạt là 10 năm, nên là loại tội rất nghiêm trọng, nên những người từ đủ 14 đến dưới 16 vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12. Chủ thể của tội này là chủ thể thường, trong tình huống trên,A chính là chủ thể của tội phạm cướp tài sản.
1.2        Định tội danh cho A?
Như đã phân tích ở trên, A phạm tội cướp tài sản theo Điều 133 BLHS.Nhưng vấn đề đặt ra là khi định tội danh cho A, ta xác định A phạm tội theo khoản 1 Điều 133 hay theo điều khoản có tình tiết tăng nặng định khung cho A?
Theo em, A phạm tội cướp tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 133 BLHS:
“ 2. Phạm tội theo một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
d)Sử dụng vũ khĩ, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm”
Căn cứ để xác định tội danh cho A chính là từ hành vi khách quan của A sử dụng hành vi nhằm cướp tài sản, dùng dây thép căng ngang đường. Hai đầu dây đều được cột chặt vào cây ven đường. Thủ đoạn này của A là thủ đoạn nguy hiểm bởi có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại và những người khác. Tính nguy hiểm của những thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng không phụ thuộc vào phương tiện được sử dụng mà phụ thuộc vào thủ đoạn sử dụng những phương tiện ấy. Trong trường hợp phạm tội của A, ta thấy một sợi dây không nguy hiểm,bản thân nó không được coi là vũ khí hay phương tiện nguy hiểm mà các văn bản hướng dẫn giải thích luật liệt kê. Nhưng sợi dây khi được A buộc qua đường làm những người đi qua ngã xuống đường lại là rất nguy hiểm. Do đó, em xác định tội danh của A là tội cướp tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 133.
2.           Nếu N bị thương tật với tỉ lệ 61% thì trách nhiệm hình sự đối với A được xác định như thế nào?
Khi xác định TNHS, ta cần xác định được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả trực tiếp của hành vi gây ra.
-                              Nếu N bị thương tật là 61% mà xác định được thương tật đó là hậu quả trực tiếp từ
hành vi khách quan của A cấu thành tội cướp tài sản theo Điều 133 thì A chịu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 4: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: a)Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật là từ 61% trở lên hoặc làm chết người…”. Thương tật thường được xác định do cơ quan pháp y để tìm ra nguyên nhân dẫn đến hậu quả đó.
-                              Nếu hậu quả thương tật 61% của N không có mối quan hệ nhân quả với hành vi
khách quan của A tức là hậu quả không do hành vi trực tiếp gây ra. Trong mối quan hệ giữa nguyên nhân- hậu quả thì hành vi khách quan cần có thêm một điều kiện xác định để gây ra hậu quả xác định là thương tật 61% cho N.  Trách nhiệm hình sự với A được xác định theo điểm c khoản 4 Điều 133: “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng này không phải là tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 4 Điều 133, tuy nhiên nó cũng tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 4 vì cùng đươc quy định trong một điều khoản. Theo đó, hậu quả thương tật của N là 61% nhưng không do hành vi khách quan làm người khác lâm vào tình trạng không chống cự được của A, thì A chịu TNHS theo điểm c khoản 4 Điều 133.
         Do vai trò quan trọng của việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nên cơ quan điều tra thường dựa vào kết quả giám định của cơ quan y tế để xác định trách nhiệm hình sự và tiến hành khởi tố cho đúng người, đúng tội. 
                          
     

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét