Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

tranh chấp thừa kế liên quan đến quyền sử dụng đất


MỞ ĐẦU
                   Đất đai từ lâu đã là nguồn tư liệu sản xuất quý giá của xã hội, nơi sản sinh ra hầu hết những giá trị của cải vật chất. Nhà nước ta đã và đang  tập trung vào việc quản lí đất đai sao cho có thể điều tiết đất đai tốt nhất và đảm bảo lợi ích từ đất đai đến được với nhân dân. Bên cạnh đó có thể thấy, hệ thống pháp luật về quan hệ đất đai thường khá rắc rối, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật và có nhiều tranh chấp liên quan. Trong bài tập Học kì môn Luật Đất đai Việt Nam, em lựa chọn đề tài số 1 với tình huống tranh chấp tài sản thừa kế là quyền sử dụng đất nhưng lại không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ( QSDĐ) trước năm 2003.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.                 Bà C có quyền kiện đòi thừa kế QSD đất với hai thửa đất của anh B đang sử dụng không? Vì sao? 
-                     Vấn đề nằm ở chỗ: hai thửa đất mà anh B đã khai thác và sử dụng từ năm 2003, sau đó được thừa kế của ông A lại chưa có giấy chứng nhận QSDĐ, vậy có được coi đó là di sản thừa kế hợp pháp hay không? Bởi Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về điều kiện tài sản được coi là di sản khi: không có tranh chấp và thuộc quyền sở hữu của người để lại di sản. Năm 2006, ông A qua đời và để lại di chúc cho anh B được hưởng hai thửa đất của mình, mà Luật Đất đai năm 2003 quy định đất đai có thể tham gia vào các giao dịch dân sự đó là không có tranh chấp và có đủ giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu.
-                     Giải quyết vấn đề
          Khoản 2 Điều 9 Nghị định 181/2004 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Đất đai: Việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại có liên quan đến đất đai phải căn cứ vào pháp luật tại thời điểm xảy ra các quan hệ đất đai dẫn đến khiếu nại, tranh chấp. Xét trong trường hợp trên: quan hệ đất đai dẫn đến tranh  chấp bao gồm hai quan hệ:
+     Quyền sử dụng đất trước năm 2003 của ông A với hai thửa đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ( QSDĐ) có hợp pháp hay không? Vấn đề này sẽ được giải quyết bằng pháp luật đất đai trước năm 2003. Cụ thể là các văn bản: Luật đất đai năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
 +     Quyền sử dụng đất của anh B được thừa nhận là hợp pháp khi không có giấy chứng nhận QSDĐ từ tài sản thừa kế năm 2006 và bà C có quyền đòi thừa kế hay không? Vấn đề này sẽ được giải quyết bằng các quy định trong Bộ Luật Dân sự năm 2005, Nghị quyết 02/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.
             Căn cứ thực tiễn:
Hai thửa đất của ông A bao gồm: một mảnh đất ở rộng 1.015 m2 và có nhà và các tài sản gắn liền trên đất, một mảnh đất trồng sắn rộng 1.000m2 tại xã Đồng Trúc, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.
Về thửa đất thứ nhất: đây là đất ở, có nhà và các tài sản gắn liền trên đất. Đất này thuộc sở hữu của ông A từ trước năm 2003, áp dụng các quy định tại Điều 11 Luật Đất đai năm 1993, đây là đất khu dân cư nông thôn. Đây là quỹ đất được sử dụng ổn định và lâu dài, hơn nữa trong quá trình ông A sử dụng không hề có tranh chấp và cũng không có các hành vi vi phạm pháp luật quản lí đất đai của Nhà nước.
Thửa đất thứ hai: rộng 1.000m2 là đất trồng sắn tại xã Đồng Trúc, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Đây là đất nông nghiệp trồng cây hàng năm. Theo quy định tại Điều 20 Luật Đất đai năm 1993, hạn mức giao đất cho cá nhân, hộ gia đình khai thác sử dụng trong 20 năm. Đến năm 2003 ông A đang là chủ sở hữu của mảnh đất nông nghiệp trồng cây hàng năm này, ta có thể suy luận được Ủy ban nhân dân huyện đã tiến hành giao đất nông nghiệp cho ông A từ trước đó.
Năm 2003 ông A đi làm kinh tế ở Lâm Đồng và giao lại cho anh B tiếp tục sử dụng. Năm 2004, bản đồ địa chính xã đã lập có tên anh B là người kê khai, sử dụng những thửa đất này nhưng anh vẫn chưa có giấy chứng nhận QSDĐ. Năm 2003 cũng là năm Luật đất đai mới được ban hành và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 11/07/2004- năm mà xã lập bản đồ địa chính.
         Căn cứ pháp lí
       Về thửa đất ở và đất nông nghiệp mà ông A là chủ sử dụng hợp pháp trước năm 2003: Căn cứ vào quy định của Luật Đất đai: đất ở được sử dụng lâu dài, đồng thời ông A đã xây dựng nhà ở và các công trình gắn liền với đất. Còn thửa đất nông nghiệp 1000m2 tại xã Đồng Trúc, huyện Thạch Thất, Hà Nội là đất nông nghiệp được giao trước 11/7/2004 và ông đã sử dụng hợp pháp, không có tranh chấp. Năm 2004, xã Đồng Trúc có lập bản đồ địa chính và ghi nhận anh B là người sử dụng hợp pháp hai thửa đất trên. Như vậy, QSDĐ của ông A là hợp pháp tuy không có giấy chứng nhận QSDĐ.
Thửa đất nông nghiệp trồng cây hàng năm ( cây sắn) của ông A được chấp nhận quyền sở hữu với những lí do như trên. Diện tích và thời gian giao đất đều phù hợp với quy định của pháp luật. Đồng thời trong quá trình sử dụng, không có căn cứ cho thấy anh B đã chuyển mục đích sử dụng nên việc sử dụng của anh là hợp pháp.
     Khi hai thửa đất này trở thành tài sản thừa kế: Do chưa có giấy chứng nhận QSDĐ nên bà C cho rằng anh B không được thừa kế hai thửa đất trên. Tuy nhiên, căn cứ vào khoản 1.3 điểm 1 Mục II Nghị quyết  02/2004 Hội đồng thẩm phán về việc hướng dẫn giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình có hướng dẫn cụ thể: tài sản là đất đai mà người để lại thừa kế khi chưa có giấy chứng nhận QSDĐ được quy định tại Điều 48 Luật Đất đai năm 2004 được coi là tài sản thừa kế hợp pháp. Khi đã là tài sản thừa kế hợp pháp thì di chúc của ông A không vô hiệu và anh B được hưởng thừa kế theo đúng quy định của Bộ Luật Dân sự năm 2005.
Như vậy, bà C không có quyền đòi thừa kế QSD hai thửa đất của anh B.
2.                 Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết vụ việc trên? Vì sao?
Trong vụ việc trên có hai vụ việc cần giải quyết và thẩm quyền cơ quan giải quyết cũng khác nhau.
Vụ việc thứ 1: Anh B cần được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Như đã chứng minh ở trên, hai thửa đất mà anh được thừa kế có nguồn gốc hoàn toàn hợp pháp, thế nhưng đã sử dụng được nhiều năm mà lại không có giấy chứng nhận QSDĐ. Đây là một thiếu sót của chính quyền địa phương, cũng có thể do sự thiếu hiểu biết của anh B khiến cho quyền lợi của chính anh không được đảm bảo.
Theo khoản 1 Điều 48 Luật Đất đai năm 2003 và khoản 2 Điều 48 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc thi hành Luật Đất đai năm 2003 quy định:Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà toàn bộ thửa đất hoặc một phần thửa đất không có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1,2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất không có giấy tờ khi có đủ các điều kiện sau:
a)                Đất không có tranh chấp
b)                Đất đã được sử dụng trước thời điểm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng điểm dân cư nông thôn được xét duyệt trường hợp đất được sử dụng sau thời điểm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn được phê duyệt thì phải phù hợp với quy hoạch hoặc kế hoạch đó. Thời điểm sử dụng đất được ủy ban nhân dân xã , phường, thị trấn nơi có đất xác nhận.
c)                 Trường hợp sử dụng đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993  đến trước ngày 01 tháng 07 năm 2004 thì phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất.
Xét các điều kiện trên thì cả 2 thửa đất mà anh B đang sử dụng và quản lí đều có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Thẩm quyền này là của Ủy ban nhân dân huyện Thạch Thất, theo quy định tại khoản 2 Điều 52 Luật Đất đai năm 2003: “Ủy ban nhân dân huyện , quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với đất”. Cụ thể hơn, tại Điều 160 Nghị đinh 181/2004 quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai mà các bên không có giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất. “ Tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các bên có liên quan gửi đến Cơ quan hành chính các cấp giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định.” Như vậy, do hai thửa đất này chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên thẩm quyền giải quyết đầu tiên thuộc về Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện.
Vụ việc thứ 2: Việc bà C yêu cầu chia thừa kế
Như trên đã chứng minh được tài sản thừa kế là hợp pháp cũng như anh B có quyền hưởng thừa kế, vụ việc này được giải quyết do các quyết định của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, bà C sẽ không được hưởng thừa kế cũng như đảm bảo quyền thừa kế của anh B. Nếu bà B tiếp tục khởi kiện vụ án để chia thừa kế thì thẩm quyền giải quyết vụ việc này thuộc về Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất theo quy định tại Luật Dân sự năm 2005 về nguyên tắc giải quyết các vụ án thừa kế: Thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án nhân dân nơi tài sản tồn tại hoặc tập trung nhiều tài sản nhất. Hoặc cơ quan thứ 2 có thẩm quyền giải quyết là Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội theo nguyên tắc giải quyết các vụ án hành chính: khi khởi kiện lần 2, đương sự có thể lựa chọn việc trình đơn lên cơ quan tư pháp cùng cấp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp.


3.                 Vụ việc này được giải quyết như thế nào theo đúng quy định của pháp luật hiện hành? Vì sao?
Em xin đề xuất ý kiến giải quyết vụ việc này như sau:
     -   Trước hết, anh B cần đem di chúc của ông A đi công chứng, chứng thực theo đúng quy định của luật công chức để di chúc được hợp pháp và đây là căn cứ để anh hưởng thừa kế quyền sử dụng đất của ông.
      -    Thứ hai, anh B cần làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất dựa trên căn cứ là bản di chúc hợp pháp của ông A. Bởi đất này có nguồn gốc là của ông A, nay anh được hưởng do thừa kế nên cần có giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trình tự và thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 151 Nghị định 181/2004/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003. Bên cạnh đó, anh phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước trong quá trình sử dụng đất.
     -     Thứ ba, anh có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Thạch Thất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định tại Điều 52 Luật Đất đai năm 2003 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng chưa có giấy tờ theo Điều 51 yêu cầu. Khi anh B đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và lại có giấy tờ hợp pháp về việc thừa kế quyền sử dụng đất thì vụ việc sẽ được giải quyết theo đúng pháp luật đất đai hiện hành. Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Thạch Thất ra Quyết định chính thức về vụ việc tranh chấp của bà C và anh B, theo đó,công nhận quyền sở hữu hợp pháp của anh và không chấp nhận việc bà C yêu cầu chia thừa kế với anh B.
KẾT THÚC
                 Qua tình huống trên ta có thể thấy quan hệ pháp luật đất đai chịu sự điều chỉnh của nhiều quy phạm pháp luật nhưng những quy định này lại chưa được hệ thống rõ ràng, cũng như việc chính sách đất đai có nhiều thay đổi qua các thời kì khiến cho việc áp dụng pháp luật trở nên khó khăn. Bên cạnh đó, việc người dân tự phát trong các quan hệ đất đai cũng gây không ít khó khăn cho cơ quan quản lí/./



Phân biệt cấp ngân sách với đơn vị dự toán


Phân biệt cấp ngân sách với đơn vị dự toán

Cấp ngân sách
Đơn vị dự toán
Vị trí, tư cách
Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền nhà nước -
Là bộ phận cơ bản cấu thành của hệ thống NSNN.
Là một cơ quan, đơn vị được nhà nước thành lập hay thừa nhận - thực hiện một nhiệm vụ được nhà nước giao, được nhận kinh phí từ ngân sách cấp để thực hiện nhiệm vụ đó.
Là bộ phận cấu thành của thành của một cấp NS. được cấp ngân sách của mình phân bổ giao dự toán để quản lý sử dụng. Riêng ngân sách xã vừa là cấp NS vừa là đơn vị trực tiếp sử dụng NS - dưới nó không có đơn vị dự toán.
Thẩm quyền
Gồm quyền quyết định, phân bổ, quản lý, giám sát kiểm tra NS của các đơn vị dự toán thuộc cấp mình trên cơ sở được phân cấp nguồn thu nhiệm vụ chi cho NS cấp mình
Quyền sử dụng ngân sách được giao, quyền quản lý giám sát đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc.
Phạm vi thu chi
Rộng: nguồn thu có được từ nhiều nguồn khác nhau trong đó có nguồn thu quan trọng từ thuế  Chi cho nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng khác nhau, mức độ chi lớn.
Thu hạn chế – chỉ từ một và nguồn được phân giao chủ yếu quản lý sử dụng nguồn kinh phí ngân sách cấp để chi cho một nhiệm vụ, lĩnh vực được phân công hay đối tượng trực thuộc đơn vị mình
Quyền chủ động và trách nhiệm đối với NS
Mức độ tự chủ cao  có quyền quyết định, quyền điều chỉnh dự toán ngân sách cấp mình. Tự bảo đảm cân đối ngân sác cấp mình trên cơ sở nguồn thu, nhiệm vụ chi được phân cấp và tình hình thực tế hoạt động thu của ngân sách cấp mình .
Mức độ tự chủ không cao, mọi hoạt động thu chi phải theo dự toán được phân bổ, chỉ được thay đổi dự toán NS khi có sự cho phép của cơ quan có thẩm  quyền. Được NS bảo đảm đúng số kinh phí theo dự toán được giao.
Chủ thể quản lý
Hệ thống cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính nhà nước – hệ thống các cơ quan tài chính các cấp .
Thủ trưởng đơn vị và bộ phận tài chính kế toán của đơn vị;
Số lượng
Có 4 cấp ngân sách tương ứng với cấp chính quyền.
Có nhiều đơn vị dự toán ngân sách - trong một cấp ngân sách có đơn vị dự toán cấp I – cấp II, cấp 3 dưới cấp III . Riêng cấp xã không có đơn vị dự toán.




Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2012

BÀI TẬP CÔNG PHÁP QUỐC TẾ VỀ BẢO LƯU ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ- NGUYỄN BẢO HẠNH




TÌNH HUỐNG 05

Bốn quốc gia A, B, C và D đã kí điều ước quốc tế về chống khủng bố, trong đó có điều khoản quy định quốc gia thành viên sẽ dẫn độ cá nhân đã thực hiện hoặc bị tình nghi thực hiện hành vi khủng bố đang hiện diện trên lãnh thổ quốc gia mình cho quốc gia nơi hành vi khủng bố diễn ra, không phụ thuộc vào quốc tịch của cá nhân đó. Điều ước quốc tế đã được cả 4 quốc gia phê chuẩn và phát sinh hiệu lực theo quy định của điều ước.
                Tuy nhiên, trong văn kiện phê chuẩn điều ước, quốc gia D đưa ra tuyên bố bảo lưu với nội dung quốc gia D sẽ chỉ dẫn độ đối với công dân nước mình nếu hành vi khủng bố hoàn toàn được thực hiện tại lãnh thổ bên kí kết khác. Theo quy định của điều ước về chống khủng bố đã kí, tuyên bố bảo lưu của D là hợp pháp. Trước tuyên bố của D, quốc gia A chấp thuận, QG B phản đối nhưng khẳng định phản đối của B không làm ảnh hưởng tới quan hệ điều ước giữa D và B, QG C phản đối bảo lưu của D và tuyên bố giữa hai quốc gia sẽ không có quan hệ điều ước.
                Hãy cho biết: Theo quy định của Công ước Viên Năm 1969 về luật điều ước quốc tế, tác động của tuyên bố bảo lưu, chấp thuận và phản đối bảo lưu đối với hiệu lực của điều khoản dẫn độ và của điều ước QT về chống khủng bố đã ký giữa các bên.





GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Căn cứ pháp lí:
Điều 2, Khoản 1.d, Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969 ghi nhận: “Bảo lưu điều ước quốc tế là hành động đơn phương bất kể cách viết hoặc tên gọi như thế nào của một quốc gia đưa ra khi ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế đó, nhằm qua đó loại bỏ hoặc sửa đổi hiệu lực pháp lý của một hoặc một số quy định của điều ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đó.”
Khi một quốc gia thành viên của điều ước quốc tế tuyên bố bảo lưu một hay một số điều khoản trong điều ước và việc bảo lưu đó là hợp pháp, thì việc chấp thuận hay phản đối tuyên bố bảo lưu đó của các quốc gia thành viên khác sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lí nhất định, được quy định tại Điều 23, Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969 như sau:
“1. Một bảo lưu đề ra đối với một bên khác chiểu theo các điều 19, 20 và 23 sẽ:
a) Thay đổi những quy định trong quan hệ giữa quốc gia đề ra bảo lưu với bên khác trong chừng mực xác định mà bảo lưu đã nêu ra; và
b) Thay đổi, cũng trong chừng mực đó, những quy định bên trong quan hệ giữa các bên tham gia điều ước với quốc gia đề ra bảo lưu.
2. Bảo lưu sẽ không thay đổi các quy định của điều ước đối với các bên khác tham gia điều ước trong những quan hệ giữa họ (interse).
3. Khi một quốc gia bác bỏ một bảo lưu mà không chống lại hiệu lực của điều ước giữa quốc gia đó và quốc gia đề ra bảo lưu, thì những quy định có bảo lưu sẽ không áp dụng giữa hai quốc gia trong chừng mực mà bảo lưu đó đề ra.”

2. Giải quyết tình huống:
                Vì tuyên bố bảo lưu điều khoản dẫn độ của quốc gia D là hợp pháp, do đó việc chấp thuận, phản đối của các quốc gia thành viên còn lại của điều ước quốc tế về chống khủng bố sẽ làm phát sinh các hậu quả pháp lý nhất định. Dựa vào các căn cứ pháp lí nêu trên, ta thấy quan hệ điều ước giữa các quốc gia thay đổi như sau:
- Quốc gia A chấp thuận bảo lưu của quốc gia D về điều khoản dẫn độ, vì vậy giữa quốc gia A và quốc gia D vẫn tồn tại quan hệ điều ước quốc tế về chống khủng bố, theo đó, quốc gia D sẽ chỉ dẫn độ đối với công dân của nước mình nếu hành vi khủng bố hoàn toàn được thực hiện tại lãnh thổ của nước A và ngược lại, quốc gia A sẽ dẫn độ đối với công dân nước mình nếu hành vi khủng bố hoàn toàn được thực hiện tại lãnh thổ nước D.
- Quốc gia B phản đối nhưng khẳng định phản đối của B không làm ảnh hưởng đến quan hệ điều ước giữa D với B. Như vậy giữa B và D vẫn tồn
tại quan hệ điều ước tuy nhiên điều khoản dẫn độ thì không được áp dụng.
- Quốc gia C phản đối bảo lưu của quốc gia D và tuyên bố giữa hai quốc gia sẽ không có quan hệ điều ước, do đó giữa C và D không tồn tại quan hệ điều ước.
- Giữa các quốc gia A, B, C vẫn tồn tại quan hệ điều ước như đã thỏa thuận: quốc gia thành viên sẽ dẫn độ cá nhân đã thực hiện hoặc bị tình nghi thực hiện hành vi khủng bố đang hiện diện trên lãnh thổ quốc gia mình cho quốc gia nơi hành vi khủng bố diễn ra, không phụ thuộc vào quốc tịch của cá nhân đó.
                Như vậy, việc chấp thuận hay phản đối của các quốc gia thành viên khác của điều ước quốc tế về chống khủng bố đối với tuyên bố bảo lưu của quốc gia D đã dẫn đến những hậu quả pháp lí nêu trên. Việc quy định về bảo lưu và hậu quả pháp lí của việc bảo lưu trong Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế đã đảm bảo giải quyết hài hòa lợi ích riêng của quốc gia với lợi ích mà quốc gia đó hướng tới khi tham gia vào điều ước quốc tế, tạo cơ hội choc ho các quốc gia vẫn có thể trở thành thành viên của một điều ước quốc tế đa phương dù họ không thể hoặc không muốn thực hiện một hoặc một số quy định cụ t

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2011

Hình sự cá nhân 2- Tội cướp tài sản

        Bài tập cá nhân Hình sự 2- tuần 2
Đề bài:
Lợi dụng đêm tối ít người qua lại, với ý định chiếm đoạt tài sản của người đi đường,A dùng dây thép căng ngang đường. Hai đầu dây đều được cột chặt vào cây ven đường. Chị N đi xe máy qua đoạn đường này bị dây thép hắt ngược trở lại,nằm ngất xỉu. A từ chỗ nấp ở bụi cây ven đường chạy ra tháo dây chuyền,nhẫn,đồng hồ,túi xách của N. Tổng tài sản trị giá 4.800.000đ. Sau đó,N được những người qua đường đưa đi bệnh  viện,được cấp cứu kịp thời nên không chết. Tổng số tiền viện phí là 2.700.000đ, tổn hại sức khỏe của N không đáng kể.Xe máy của N bị hỏng,tiền sửa chữa là 800.000đ.
Hỏi:
1.Xác định tội danh và định khung hình phạt cho hành vi của A?
2. Giả sử N bị thương với thương tật là 61% thì trách nhiệm hình sự của A được xác định như thế nào?


 1.Xác định tội danh của A và định khung hình phạt cho A?
1.1: Xác định tội danh của A:
- A phạm tội cướp tài sản theo quy định Điều 133 BLHS 1999,bởi những hành vi phạm tội của A đã CTTP cướp tài sản theo Điều 133.
+ Khách thể tội phạm:
   Tội cướp tài sản xâm phạm đến hai quan hệ là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản.Bằng hành vi phạm tội của mình, người phạm tội đã xâm phạm đến trước hết là thân thể, tự do thân thể và tính mạng của người bị hại để có thể xâm phạm đến tài sản của họ. Mục đích xâm phạm tài sản là mục đích chính nên tội cướp tài sản được xếp vào nhóm các tội xâm phạm sở hữu . Sự xâm hại một trong hai quan hệ này không làm rõ tính nguy hiểm của hành vi.
  A có mục đích chiếm đoạt tài sản của người đi đường nên đã sử dụng thủ đoạn để đạt được mục đích đó. Chị N chỉ là một người đi qua đoạn đường mà A đã chờ sẵn để cướp tài sản . A hành động như thế để cướp của những ai đi qua đó mà mắc phải bẫy của A
+ Mặt khách quan của hành vi:
   Theo quy định của khoản 1 Điều 133- CTTP cơ bản của tội cướp, các nhà làm luật đã quy định về hành vi khách quan của tội cướp là: sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc hành vi khác. Trong đó,ta thấy: sử dụng vũ lực là hành vi mà người phạm tội đã tác động trực tiếp đến thân thể nạn nhân như: đâm, bắn, chém…Còn đe dọa dùng vũ lực là dùng lời nói để tác động vào ý thức của nạn nhân,để họ sợ hãi mà phải giao tài sản ra. Còn dử dụng thủ đoạn khác là  sử dụng hành vi tấn công để nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Đây là hành vi khách quan của tội cướp mà không là dạng dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực.
    Hành vi của A không tác động trực tiếp vào cơ thể nạn nhân, cũng không sử dụng lời nói để đe dọa . A đã buộc dây ngang đường để người đi qua mắc phải, ngã xe và lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Như vậy, hành vi của A là sử dụng hành vi khác làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được, bởi nạn nhân N đã bị ngã xe và ngất xỉu.
 +  Mặt chủ quan của tội phạm:
      Người phạm tội không chỉ cố ý thực hiện hành vi phạm tội mà còn có mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới CTTP cướp tài sản, bởi tội cướp tài sản cũng xâm phạm đến quyền nhân thân, nên cần xác định rõ mục đích chiếm đoạt tài sản để không nhầm lẫn tội cướp tài sản với các tội xâm phạm đến sức khỏe,tự do thân thể, tính mạng của người khác. Như vậy, ý thức chiếm đoạt tài sản phải có trước khi người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm đến nạn nhân,chứ không phải là khi người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm đến nạn nhân và tiến hành lấy tài sản khi nạn nhân đã chết hay bỏ chạy để lại tài sản.
      A đã có ý định chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện hành vi buộc dây ngang qua đường. Như vậy, tội phạm cướp tài sản của A được thể hiện rất rõ, bởi ý định chiếm đoạt tài sản của A hình thành trước khi chị N bị ngã ngất xỉu.
      Lỗi của người phạm tội cướp tài sản hiển nhiên phải là lỗi cố ý trực tiếp,bởi  người phạm tội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi cướp, mong muốn hậu quả đó xảy ra và tiến hành những phương tiện, thủ đoạn để hậu quả đó xảy ra.
+ Chủ thể của tội phạm cướp tài sản:
Người phạm tội cướp tài sản phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên và khi thực hiện hành vi phạm tội không mắc các bệnh thần kinh hay các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi. Tội cướp tài sản có mức cao nhất của khung hình phạt là 10 năm, nên là loại tội rất nghiêm trọng, nên những người từ đủ 14 đến dưới 16 vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12. Chủ thể của tội này là chủ thể thường, trong tình huống trên,A chính là chủ thể của tội phạm cướp tài sản.
1.2        Định tội danh cho A?
Như đã phân tích ở trên, A phạm tội cướp tài sản theo Điều 133 BLHS.Nhưng vấn đề đặt ra là khi định tội danh cho A, ta xác định A phạm tội theo khoản 1 Điều 133 hay theo điều khoản có tình tiết tăng nặng định khung cho A?
Theo em, A phạm tội cướp tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 133 BLHS:
“ 2. Phạm tội theo một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
d)Sử dụng vũ khĩ, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm”
Căn cứ để xác định tội danh cho A chính là từ hành vi khách quan của A sử dụng hành vi nhằm cướp tài sản, dùng dây thép căng ngang đường. Hai đầu dây đều được cột chặt vào cây ven đường. Thủ đoạn này của A là thủ đoạn nguy hiểm bởi có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại và những người khác. Tính nguy hiểm của những thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng không phụ thuộc vào phương tiện được sử dụng mà phụ thuộc vào thủ đoạn sử dụng những phương tiện ấy. Trong trường hợp phạm tội của A, ta thấy một sợi dây không nguy hiểm,bản thân nó không được coi là vũ khí hay phương tiện nguy hiểm mà các văn bản hướng dẫn giải thích luật liệt kê. Nhưng sợi dây khi được A buộc qua đường làm những người đi qua ngã xuống đường lại là rất nguy hiểm. Do đó, em xác định tội danh của A là tội cướp tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 133.
2.           Nếu N bị thương tật với tỉ lệ 61% thì trách nhiệm hình sự đối với A được xác định như thế nào?
Khi xác định TNHS, ta cần xác định được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả trực tiếp của hành vi gây ra.
-                              Nếu N bị thương tật là 61% mà xác định được thương tật đó là hậu quả trực tiếp từ
hành vi khách quan của A cấu thành tội cướp tài sản theo Điều 133 thì A chịu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 4: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: a)Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật là từ 61% trở lên hoặc làm chết người…”. Thương tật thường được xác định do cơ quan pháp y để tìm ra nguyên nhân dẫn đến hậu quả đó.
-                              Nếu hậu quả thương tật 61% của N không có mối quan hệ nhân quả với hành vi
khách quan của A tức là hậu quả không do hành vi trực tiếp gây ra. Trong mối quan hệ giữa nguyên nhân- hậu quả thì hành vi khách quan cần có thêm một điều kiện xác định để gây ra hậu quả xác định là thương tật 61% cho N.  Trách nhiệm hình sự với A được xác định theo điểm c khoản 4 Điều 133: “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng này không phải là tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 4 Điều 133, tuy nhiên nó cũng tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 4 vì cùng đươc quy định trong một điều khoản. Theo đó, hậu quả thương tật của N là 61% nhưng không do hành vi khách quan làm người khác lâm vào tình trạng không chống cự được của A, thì A chịu TNHS theo điểm c khoản 4 Điều 133.
         Do vai trò quan trọng của việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nên cơ quan điều tra thường dựa vào kết quả giám định của cơ quan y tế để xác định trách nhiệm hình sự và tiến hành khởi tố cho đúng người, đúng tội. 
                          
     

Bài tập Học kì Dân sự 2- Lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng



I.                  ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong một hợp đồng dân sự được giao kết, bao giờ các bên cũng dự liệu về các hậu quả pháp lí bất lợi mà một trong hai bên phải chịu khi không thực hiện đúng hợp đồng. Nhưng bên cạnh đó, có nhiều khả năng những sự kiện bất ngờ, những thiệt hại xảy ra ngoài sự thỏa thuận của hai bên. Chính vì thế mà pháp luật dân sự đặt ra chế định đền bù thiệt hại ngoài hợp đồng để bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại. Trong 4 điều kiện phát sinh đến bù thiệt hại ngoài hợp đồng, yếu tố lỗi là yếu tố quan trọng nhưng lại có nhiều vấn đề pháp lí phát sinh xung quanh những quy định của pháp luật về yếu tố lỗi trong đền bù thiệt hại ngoài hợp đồng, bởi có những thiệt hại vẫn phải đền bù ngay cả khi không có lỗi. Chính vì thế trong hệ thồng bài tập học kì môn luật dân sự Việt Nam module 2, em chọn đề tài : “Yếu tố lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” để làm rõ hơn những quy định của pháp luật Việt Nam về chế định quan trọng này.
Hệ thống bài viết của em gồm các ý chính đó là:
-                     Trình bày về những quy định chung của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và những căn cứ phát sinh
-                     Đặc điểm của yếu tố lỗi trong pháp luật dân sự
-                     Những quy định cụ thể của pháp luật về lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
-                     Những tình huống thực tế và cách giải quyết gắn với từng trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
-                     Những hạn chế và bất cập trong quy định của pháp luật và nêu ra phương hướng điều chỉnh.



II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1.                  Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự Việt Nam
-                     Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phát sinh trên căn cứ là hợp đồng mà dựa trên những quy định của pháp luật. Pháp luật đề ra chế định này để đảm bảo quyền lợi của người bị hại, để đảm bảo ổn định an toàn xã hội và sự quản lí của pháp luật đến mọi quan hệ xã hội. Bồi thường thiệt hại thường phát sinh do bất chợt và ngẫu nhiên, không có sự dự liệu trước như nghĩa vụ dân sự mà là do hành vi trái pháp luật nói chung và vi phạm quyền lợi của một chủ thể pháp luật dân sự nói riêng gây ra thiệt hại . Thiệt hại không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần, nên chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thể coi như một biện pháp khắc phục thiệt hại mà hành vi trái pháp luật gây ra nhằm khôi phục lại hoặc đền bù cho những thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, tinh thần của người bị thiệt hại. Nghĩa vụ này góp phần ổn định cộng đồng và đảm bảo cho công bằng trong xã hội.
-                     Về xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, có 4 yếu tố để xác định đó là: hành vi gây trái pháp luật, thiệt hại xảy ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, yếu tố lỗi của người gây thiệt hại.
-                     Điều 604 BLDS đã quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đó là:
“ 1. Người nào do lỗi có ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe , danh dự, nhân phẩm , uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, xâm phạm, danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.  2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải gây thiệt hại ngay cả khi người đó không co lỗi thì áp dụng quy định đó.”
-                     Như vậy, yếu tố lỗi không là yếu tố bắt buộc để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bởi có những trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi nhưng vẫn có trách nhiệm bồi thường.
2.Yếu tố lỗi trong Luật Dân sự Việt Nam:
-                     Khái  niệm lỗi: Lỗi trong luật dân sự được chấp nhận với khái niệm lỗi trong luật hình sự Việt Nam. Lỗi được hiểu là : thái độ, tâm lí của một người với hành vi trái pháp luật mà mình gây ra. Do đó, lỗi được thể hiện lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý và được ghi nhậ trong Điều 308 BLDS.
-                     Lỗi cố ý gây thiệt hại là trường hợp nhận thức rõ về hành vi trái pháp luật của mình có thể gây ra thiệt hại những vẫn thực hiện hoặc không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
-                     Lỗi vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không nhận thức được hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại cho xã hội mặc dù phải biết trước hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại nhưng tin rằng thiệt hại đó có thể ngăn chặn được hoặc không xảy ra thiệt hại.
-                     Lỗi trong luật hình sự là một trong những yếu tố chính để xác định cấu thành tội phạm và tiến hành định tội danh nhưng trong luật dân sự, yếu tố lỗi lại không được căn cứ như luật hình sự để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, vấn đề quan trọng là xác định mức độ lỗi của các bên trong tình huống thực tế. Điểm đặc biệt này ta có thể thấy rõ trong các trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được trình bày dưới đây, có trường hợp người phải bồi thường lại không có lỗi.
-                     Những nguyên tắc để xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
+ Khi xảy ra thiệt hại, chủ thể đầu tiên cần xem xét trách nhiệm bồi thường chính là chủ sở hữu.
+ Nếu chủ sở hữu chứng minh được rằng thiệt hại xảy ra do một trong ba điều kiện sau thì chủ sở hữu không phải bồi thường: thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người thứ ba, hoặc là do tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng mà chủ sở hữu đã áp dụng mọi biện pháp ngăn chặn hiệu quả nhất có thể thực hiện để ngăn hậu quả xảy ra, hoăc thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại.
Khi nhận thức về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có rất nhiều những ý kiến khác nhau. Điều 308 BLDS quy định về lỗi và hình thức lỗi trong pháp luật Việt Nam, và tồn tại hai ý kiến trái ngược nhau là: có hay không lỗi suy đoán trong luật dân sự Việt Nam? Theo một số ý kiến đưa ra trong các sách chuyên khảo đó là: ngoài lỗi cố ý, lỗi vô ý ra thì không thể tồn tại lỗi suy đoán, bởi hình thức lỗi là do luật định.Nhưng theo em, lỗi suy đoán không phải là một hình thức lỗi có bản chất như lỗi cố ý hay vô ý, mà lỗi suy đoán là một cách để buộc người có liên quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại với mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người bị hại.
 đồng trong luật dân sự Việt Nam.
3.Yếu tố lỗi trong các trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của BLDS.
3.1:Bồi thường thiệt hại do suy đoán lỗi:
Đây là một trong những điểm quan trọng và khác biệt lớn nhất của luật dân sự, đồng thời cũng là vấn đề còn tranh luận nhiều trong quá trình áp dụng luật. Bởi trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự có những điểm khác biệt căn bản: phần lớn trách nhiệm hình sự được đặt ra là giữa người có hành vi trái pháp luật hình sự với Nhà nước, nhưng trách nhiệm dân sự lại tồn tại chủ yếu giữa các chủ thể của luật dân sự, và quan trọng hơn là trong luật dân sự, chúng ta chấp nhận chế định suy đoán lỗi. Suy đoán lỗi là cách mà luật buộc một người phải có trách nhiệm trước hành vi của người thứ ba, khi người này có trách nhiệm giám hộ người gây ra thiệt hại, suy đoán lỗi ở đây là sự suy đoán người đó có lỗi với nghĩa vụ giám hộ, quản lí của mình đối với người gây thiệt hại.
Khoản 3 Điều 606 quy định: “ Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc tài sản không đủ để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ không chứng  minh được rằng mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải đền bù”.
Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, tức là khi nhận thức được hành vi của mình và có khả năng làm chủ hành vi đó. Nhưng người không có khả năng nhận thức được hành vi thì được coi như không có lỗi trong việc thực hiện hành vi. Trong điều luật trên đã quy định về người chưa thành niên, người mất năng lực hành vu dân sự gây thiệt hại, tức là họ không có khả năng nhận thức hành vi của mình, nên không phải bồi thường mà nghĩa vụ bồi thường thuộc về người giám hộ.
Người giám hộ được suy đoán lỗi do không thực hiện đúng phạm vi giám hộ của mình để người được giám hộ gây thiệt hại nên pháp luật áp dụng việc suy đoán lỗi, buộc người giám hộ phải bồi thường trong trường hợp người gây thiệt hại không có tài sản hay tài sản không đủ để đền bù. Như vậy, nếu người gây thiệt hại là người được giám hộ, trong thời gian học tại trường học, bệnh viện… mà gây ra thiệt hại thì người giám hộ, trường học, bệnh viện phải bồi thường.
Trừ trường hợp người giám hộ chứng minh được rằng mình không có lỗi khi người được giám hộ gây ra thiệt hại thì người đó không phải bồi thường. Nghĩa là người giám hộ chứng minh được trường hợp suy đoán lỗi là sai, bởi họ đã thực hiện đúng nghĩa vụ của người giám hộ nhưng người được giám hộ vẫn gây ra thiệt hại.
Đây là một điểm khác biết trong việc xem xét trách nhiệm dân sự. Bởi nếu như trách nhiệm hình sự được nghiên cứu dựa trên nguyên tắc cá thể hóa, thì vấn đề bồi thường thiệt hại được đặt ra nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại. Trong rất nhiều trường hợp, người bồi thường lại không phải là người gây ra thiệt hại. Theo quy định trong khoản 1 Điều 309: Có hai trạng thái của hành vi có lỗi đó là: thực hiện một việc mà pháp luật cấm không được làm, hai là: không ngăn cản hậu quả xảy ra khi có đủ khả năng hoặc được pháp luật yêu cầu phải ngăn chặn hậu quả xảy ra. Như vậy, vấn đề đặt ra là: Một người có phải chịu trách nhiệm bồi thường do không hành động hay không? Theo em là có. Vì trong quan hệ bồi thường thiệt hại có lỗi của chủ thể, ta còn xác định được lỗi của người không trực tiếp gây thiệt hại dưới dạng không làm một việc mà theo quy định là phải làm. Từ hành vi không làm việc phải làm đó đã gây thiệt hại cho người khác. Từ đó phát sinh trách nhiệm của người quản lí, người giám hộ cho người không có năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi, hoặc trong trường hợp pháp nhân không có lỗi trước một hành vi gây thiệt hại do người của pháp nhân gây ra và hành vi đó gây thiệt hại khi người này đang làm nhiệm vụ theo đúng hợp đồng với pháp nhân chứ không phải thực hiện hành vi này với tư cách cá nhân. 
3.2: Bồi thường thiệt hại khi có lỗi của người bị thiệt hại:
         Đây là một chế định quan trọng nhưng lại có nhiều vấn đề liên quan còn chưa được rõ ràng của pháp luật. Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi thì trách nhiệm bồi thường thuộc về ai? Trách nhiệm bồi thường được xử lí như thế nào để đảm bảo lợi ích hợp pháp cho cả hai bên? Điều 617 quy định: “ Khi người thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường.”
Sự đánh giá mức độ lỗi để áp dụng biện pháp bồi thường với người thiệt hại đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức bồi thường.Theo quy định trên, lỗi của người bị thiệt hại không cần xác định là hình thức lỗi cố ý hay vô  mà lỗi được hiểu theo nghĩa hoàn toàn thuộc về người bị thiệt hại.  Để áp dụng được đúng Điều 617 trong trường hợp phát sinh thực tế ta thấy có những điểm đáng chú ý đó là:
- Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị hại thì người gây ra thiệt hại không phải bồi thường. Lỗi của người bị thiệt hại có thể là cố ý hay vô ý, nhưng để xác định được rằng hậu quả xác định xảy ra do sự biến pháp lí chính là hành vi chứa đựng lỗi của người bị thiệt hại thì tất  nhiên dù có thiệt hại thực tế xảy ra nhưng người gây thiệt hại không phải bồi thường.
- Cũng theo Điều 617, ta thấy phát sinh một quy định là hỗn hợp lỗi – cả bản thân người bị thiệt hại và người gây ra thiệt hại đều có lỗi. Nhưng Điều 308 BLDS chỉ quy định về lỗi cố ý và lỗi vô ý, vậy Điều  617 được áp dụng như thế nào? Yếu tố lỗi tự bản thân nó không tồn tại độc lập với các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà có quan hệ mật thiết với hậu quả khách quan, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.Theo nguyên tắc chung của pháp luật dân sự thì hình thức lỗi  không ảnh hưởng đến mức độ bồi thường và trách nhiệm bồi thường của người đó. Người gây thiệt hại dù có lỗi cố ý hay vô ý thì đều phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do những hành vi của mình gây ra, chứ không vì người gây thiệt hại có lỗi cố ý hay vô ý mà mức độ bồi thường được giảm bớt. Tuy nhiên pháp luật cũng có quy định cho những trường hợp mức bồi thường được giảm bớt : Người gây thiệt hại có lỗi vô ý, nhưng thiệt hại gây ra quá lớn so với điều kiện kinh tế của họ, hoặc cả hai bên đã có thỏa thuận về giảm mức bồi thường.
- Trong Điều 617, có quy định là xác định mức độ lỗi của người gây thiệt hại và người bị thiệt hại để xác định mức bồi thường của người gây thiệt hại khi người bị thiệt hại cũng có lỗi. Nhưng trong pháp luật Việt Nam cả dân sự hay hình sự đều không quy định về mức độ lỗi như thế nào là nặng hay nhẹ mà chỉ quy định về lỗi cố ý, lỗi vô ý, tức là nói đến thái độ tâm lí và khả năng nhận thức về hành vi của chủ thể khi thực hiện hành vi đó. Điều 617 đặt ra vấn đề về mức độ lỗi có phần không hợp lí khi không có quy định nào cụ thể cho mức độ lỗi trong pháp luật nước ta. Nhưng đây lại là một trong những trường hợp khá phổ biến về bồi thường thiệt  hại ngoài hợp đồng của Việt Nam. Vậy nên, có thể chúng ta phân biệt bằng các hình thức lỗi: lỗi vô ý do quá tự tin, vô ý do cẩu thả, lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp… Trong một số trường hơp nhất định thì lỗi cố ý thương gây hậu quả nghiêm trọng hơn lỗi vô ý và trong luật cũng quy định việc giảm mức bồi thường thiệt hại chỉ là trong trường hợp người đó vì lỗi vô ý mà gây hậu quả và mức bồi thường có ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế của người đó.
3.3: Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nhiều người cùng có lỗi:
 Nhiều người cùng có lỗi là khi ta xác định được các cá nhân tham gia vào tình huống này cùng có lỗi trong việc gây ra hậu quả, còn mức độ lỗi như thế nào ta phải xem xét dựa trên hành vi và mức độ thiệt hại cũng như vai trò của từng hành vi dẫn đến hậu quả xảy ra. Điều 616 quy định : “ Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại  của từng người tùy thuộc vào mức độ lỗi của  mỗi người, nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.” 
Điều 616 lại đặt ra tình huống bồi thường thiệt hại dựa trên mức độ lỗi của người gây thiệt hại. Và trong Điều 616, ta quan tâm đến vấn đề: như thế nào có thể xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có những hành vi gây thiệt hại không cùng tính chất, đặc biệt là trong các vụ án đồng phạm.
Ví dụ như : A và B cùng đến nhà chị T để ăn trộm. Thấy chị T đang ngủ, A nảy ra ý định hiếp dâm chị T trong khi B đã bỏ đi. Hành vi của A là hành vi phạm tội riêng biệt mà B không hề biết. Hành vi này so với hành vi trộm cắp tài sản là không có liên quan đến nhau, nên B chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trộm cắp tài sản gây ra chứ không phải chịu trách nhiệm về tội hiếp dâm cũng như không phải bồi thường cho chị T.  Nhưng vấn đề đặt ra trong tình huống cụ thể là: nếu  B biết hành vi hiếp dâm của A và không có hành vi ngăn cản thì B có lỗi trong tình huống đó không và B có phải bồi thường thiệt hại cho chị T không? Nếu có thì mức bồi thường như thế nào? Theo em thì B không có lỗi trong tình huống bản thân B biết hành vi mà A làm. Hành vi hiếp dâm không cùng tính chất với tội trộm cắp, B phải bồi thường thiệt hại do hành vi trộm cắp tài sản gây ra. Ý muốn chị T bị hiếp dâm không nằm trong ý chí của B, cũng như B không nhận thức  được sự nghiêm trọng của hành vi và B không có hành vi hiếp dâm. Nếu bắt B phải liên đới trách nhiệm bồi thường cho chị T sẽ gây nên sự bất công trong truy cứu trách nhiệm bồi thường với A và B. Hiểu theo 616 thì những người có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại chỉ khi họ cùng thực hiện một công việc nhất định.
3.4 Bồi thường thiệt hại khi không có lỗi của người có trách nhiệm bồi thường:
Trong bốn điều kiện để xác định trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng, yếu tố lỗi được loại trừ trong hai trương hợp duy nhất: khoản 3 Điều 623: trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu do nguồn nguy hiểm cao độ gây nên và Điều 624: trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường.
-                     Khoản 3 Điều 623 quy định: Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi trừ các trường hợp sau đây:
a)                 Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị hại
b)                Thiệt hại xảy ra trong trường hợp tình thế cấp thiết hoặc tình thế bất khả kháng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trong trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng này, chủ sở hữu hoặc người đang chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ ngay cả khi  không có lỗi chỉ trừ hai tình huống mà đã được luật loại trừ trách nhiệm đền bù đó là: khi chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ chứng minh được lỗi hoàn toàn do người bị  hại, lỗi do người thứ ba hoặc trong tình thế bất khả kháng, tình thế cấp thiết mà chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp đã dùng mọi biện pháp khắc phục để hậu quả không xảy ra nhưng cuối cùng hậu quả vẫn xảy ra. Không thể áp dụng nguyên tắc đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại để buộc chủ sở hữu hay người đang chiếm hữu hợp pháp phải bồi thường trong trường hợp này.
Chủ sở hữu hay người đang chiếm hữu hợp pháp phải bồi thường thiệt hại khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại ngay cả khi họ không có lỗi, tức là bản thân chủ sở hữu hay người đang chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đó không biết hoặc không buộc phải biết về nguy cơ gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ trong thời gian hoạt động và sử dụng bình thường.
Nếu nói rằng yếu tố lỗi của chủ sở hữu, người chiếm hữu trong khoản 3 Điều 623 không có, tức là một trong bốn điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã bị mất đi mà vẫn phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là không chính xác. Bởi theo em, yếu tố lỗi được ghi nhận trong khoản 3 Điều 623 cần được nhìn nhận dưới góc độ khác đó là : khả năng của chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ ý thức được nguy cơ gây thiệt hại cho người khác, chính vì thế mà những nguồn nguy hiểm cao độ hiện nay đều được Nhà nước quản lí. Hành vi sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải là hành vi trái pháp luật nhưng bản thân nó có khả năng gây thiệt hại nằm ngoài ý thức chủ quan của chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp nên chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp cần có sự ràng buộc trách nhiệm với hành vi mà pháp luật không cấm đó. Có nghĩa là 4 điều kiện để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đều có, nhưng cách nhìn nhận các yếu tố ấy thì không giống như các điều khoản khác của BLDS. Lỗi trong khoản 3 Điều 623 không phải là ý thức tâm lí của chủ thể với hành vi trái pháp luật của mình, bởi hành vi sở hữu va chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ là hành vi pháp luật không cấm. Nhưng khi đã chiếm hữu hợp pháp hay sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, pháp luật buộc người đó phải có ý chí trong việc gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi từ nguồn nguy hiểm cao độ, bởi bản thân nguồn nguy hiểm cao độ có nguy cơ đem đến những thiệt hại do tính chất nguy hiểm của nó. 
Chính vì thế, chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại khi không có lỗi trong trường hợp: nguồn nguy hiểm cao độ hoạt động bình thường và gây ra thiệt hại mà không có sự can thiệp hay ý chí của người khác. Ví dụ như : máy bay bốc cháy dù người phi công đang điều khiển bình thường, xe máy đứt phanh dù không có sự can thiệp từ bên ngoài…
-                     Bồi thường thiệt hại theo Điều 624 khi gây ô nhiễm môi trường mà không có lỗi của chủ thể.
Ta thấy rằng: môi trường là điều kiện sinh sống bình thường của một tập hợp dân cư và sinh vật. Hành vi gây ô nhiễm môi trường không cần yếu tố lỗi cố ý hay vô ý đều buộc chủ thể có trách nhiệm bồi thường để đảm bảo quyền lợi của cộng đồng và Nhà nước. Lỗi là ý thức hay trạng thái tâm lí của người gây ra thiệt hại, nhưng trong hành vi ô gây ô nhiễm môi trường thì bản thân chủ thể không cần đòi hỏi về yếu tố lỗi mà đề ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương tự như khoản 3 Điều 623.
4. Những tranh chấp thực tế phát sinh từ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
Vụ án 1: Bồi thường thiệt hại do suy đoán lỗi.
Năm 1996, tại thành phố Tam Kì tỉnh Quảng Nam có một mảnh đất rộng 600m2 ­ và được UBND xã sở tại cho bà Nguyễn Thị Ngọc Tú và ông Trần Quang Dũng thuê mỗi người 300m2  trong vòng 8 năm để xây của hàng chuyên cung cấp hàng hóa tiêu dùng cho huyện. Nhà bà Tú bán đồ lương thực, thực phẩm, còn nhà ông Dũng bán đồ điện dân dụng. Hai  nhà kho ở cạnh nhau. Ngày 3/7/1998, một ngọn lửa không rõ nguyên nhân đã thiêu trụi nhà ông Dũng và cháy lan sang nhà bà Tú và không thể kiểm soát được. Năm 1999, bà Tú làm đơn khởi kiện yêu cầu ông Dũng bồi thường thiệt hại cho bà. Năm 2002, Tòa án nhân dân huyện mở phiên tòa sơ thẩm và quyết định bác đơn yêu cầu của bà Tú vì qua quá trình điều tra không rõ được nguyên nhân cháy. Bà Tú đã gửi đơn kháng cáo. Đến năm 2004, Tòa án nhân dân tỉnh mở phiên tòa sơ thẩm vụ án trên của bà Tú, nhưng không điều tra được nguyên nhân cháy nên bác đơn yêu cầu của bà. Năm 2006, Tòa án nhân dân tỉnh xử phúc thẩm vụ án trên đã áp dụng nguyên tắc suy đoán lỗi của ông Dũng trong vụ án và đưa ra phán quyết yêu cầu ông phải bồi thường thiệt hại cho bà Tú là 185.000.000 đồng.
Trong vụ án trên ta thấy: nguyên nhân cháy không điều tra được và cơ quan tố tụng không đủ bằng chứng để cho rằng nguyên nhân cháy là từ nhà của ông Dũng. Tòa án nhân dân tỉnh khi thụ lí vụ án cho rằng: ngọn lửa bốc cháy bắt đầu từ nhà ông Dũng, mà ông lại không đưa ra được căn cứ nào để chứng minh rằng việc nhà ông bị cháy là do hoàn cảnh bất khả kháng hoặc do các sự kiện bất ngờ, cũng không chứng minh được rằng bà Tú có lỗi trong việc để lửa cháy lan sang nhà bà ( hai cửa hàng ở ngay kề nhau), hoặc không đưa ra bằng chứng cho thấy có hành vi có lỗi của người thứ ba làm bùng phát ngọn lửa. Hơn nữa, gia đình ông Dũng buôn bán đồ điện gia dụng, đều là những vật dụng dễ cháy nên Tòa án sử dụng biện pháp lỗi suy đoán để buộc ông Dũng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Tú.
Vụ án 2: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra:
        - Anh A đang điều khiển xe máy với vận tốc 30km/h đi ngược chiều với anh B. Một hòn đá nhỏ dưới bánh xe của anh A khi anh B đi qua đã bắn vào mắt anh, gây tổn hại đến sức khỏe là 10%. Anh B yêu cầu anh A bồi thường về sức khỏe cho mình vì thiệt hại xảy đến cho anh B là do nguồn nguy hiểm cao độ tức là do xe máy của anh A gây nên. Nhưng trong tình huống này, anh A không có trách nhiệm bồi thường cho anh B bởi thiệt hại xảy ra là do anh B gặp rủi ro chứ không phải do nguồn nguy hiểm cao độ của anh A. Anh A tuân thủ đúng luật giao thông đường bộ, đồng thời quá trình vận hành bình thường chiếc xe máy của anh không mang đến thiệt hại cho anh B. Anh B bị tổn hại sức khỏe là do một hòn đá khi anh A đi qua, bánh xe đã khiến hòn đá đó bắn vào mắt anh nhưng anh không thể yêu cầu anh A bồi thường được.
        -  Giả sử: Anh A đang điều khiển xe máy trên đường cao tốc với vận tốc 90 km/h thì xe bị gẫy phanh và đâm vào anh B gây thiệt hại về sức khỏe và tài sản. Bản thân anh A không hề có lỗi trong trường hợp này, nhưng anh là chủ sở hữu chiếc xe máy, và chiếc xe gây thiệt hại trong khi đang hoạt động và thuộc sự sở hữu của anh A. Dù không có lỗi nhưng anh A vẫn phải bồi thường thiệt hại cho anh B.
       -  Có ví dụ khác về nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại nhưng hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại: Nhà ông K có con chó rất dữ, ai đến nhà cũng đều được ông căn dặn cẩn thận vì con chó rất to và hung bạo. Ông K đã đóng cũi và trông nom nó cẩn thận. Một hôm, P đến nhà ông K thì ông đi vắng. Con chó đang ở trong cũi thấy người lạ liền sủa rất to. P biết rằng con chó dữ, nhưng thấy ông K đã nhốt nó vào trong cũi, bèn lấy đá ném trêu chó. Con chó húc gẫy cửa cũi và cắn P bị thương vào chân. Gia đình P yêu cầu ông K phải bồi thường thiệt hại cho con mình. Nhưng ông K cho rằng ông không phải bồi thường vì hoàn toàn là lỗi của P. P biết là con chó rất dữ và có khả năng cắn người, còn ông đã thực hiện các biện pháp để đảm bảo việc trông giữ nó. Lỗi hoàn toàn của người bị thiệt hại thì ông không có nghĩa vụ bồi thường là chính xác.
Vụ án 3: Bồi thường thiệt hại do người của cơ quan có thẩm quyền  tiến hành tố tụng gây ra:
   Hoàng Văn C là Công an thuộc Tổ Công an phòng chống tội phạm ma túy của huyện  Y, tỉnh N. Ngày 04/05/2008, C đang truy bắt T- một đối tượng buôn ma túy mà Công an tỉnh có lệnh truy nã với các tội danh nguy hiểm như buôn bán ma túy, bắt cóc trẻ em, buôn bán trẻ em qua biên giới.  C đang đuổi bắt T thì T bất ngờ rẽ xe vào một con đường mòn. C đuổi theo và đâm vào bà A đi ngược chiều, gây thiệt hại về tài sản cho bà A là 15.000.000 đồng. Bà A sau đó có yêu cầu C phải bồi thường thiệt hại cho mình.
Trong trường hợp gây thiệt hại của C, ta thấy C gây thiệt hại khi đang thi hành nhiệm vụ của mình. Nhưng hành vi gây thiệt hại của C lại không mang yếu tố quyền lực Nhà nước mà chỉ là hành vi cá nhân của C. Do đó, cơ quan của C không có trách nhiệm phải bồi  thường cho bà A, C phải bồi thường cho bà A.
Vụ án thứ 4: Bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại cũng có lỗi:
      Anh A đang điều khiển một chiếc xe máy đi trên đường Nguyễn Chí Thanh thì anh D đi ngược chiều, do đây là đường một chiều lại đang giờ cao điểm, anh A không thể điều khiển xe máy tránh được xe anh D. Kết quả là anh A đâm vào anh D và gây thiệt hại về sức khỏe cũng như tài sản cho anh D. Nhưng hành vi gây thiệt  hại được xác định hoàn toàn là do lỗi của anh D khi đi ngược đường một chiều, vậy nên anh A không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh D.
        Ví dụ về trường hợp hỗn hợp lỗi của cả người bị thiệt hại và người gây thiệt hại: Nếu trên một ngã tư, đang có đèn đỏ nhưng cả anh A và anh B đều vượt đèn đỏ dẫn đến tai nạn, thì mức độ lỗi của cả hai người là như nhau, đều có lỗi cố ý nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại không đặt ra cho bất kì ai trong hai người.
Vụ án thứ 5: Bồi thường thiệt hại do công trình, nhà cửa gây nên:
Năm 2007, phường A tổ chức đào lại rãnh thoát nước,mở các nắp cống và hố ga để nạo vét chuẩn bị cho mùa mưa. Những người đại diện cho phường đã thuê đội thi công của anh T làm việc này. Trong thời gian thi công, một trận mưa rào đã làm cho đoạn đường đang thi công ngập úng trong nhiều giờ. Anh H đi làm về, do không biết được rằng đoạn đường bị tháo nắp, xe mô-tô anh H đang điều khiển đã lao xuống cống , bản thân anh H bị thương phải vào viện điều trị hết 15.000.000 đồng, sửa chữa xe hêt 2.000.000 đồng, chi phí trong những ngày anh nằm viện và chi phí anh yêu cầu đền bù tổng cộng là 24.000.000 đồng. Anh yêu cầu phường A đền bù thiệt hại cho anh.
Trong tình huống trên, anh H không thể yêu cầu phường A có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho anh với tư cách người sử dụng lao động.Bởi phường A đứng ra thuê đội thi công của anh T làm việc này, mà đội thi công của anh T lại có lỗi trong việc không cắm biển thông báo công trường hay dấu hiệu nguy hiểm khi đang thi công công trình. Các khoản tiền bồi thường thiệt hại về sức khỏe và tài sản cũng như thiệt hại kinh tế trong thời gian nằm viện của anh, anh H có thể yêu cầu đội thi công của anh T đền bù cho anh.
Ví dụ 6: Bồi thường thiệt hại khi nhiều người cùng có lỗi
A, B và C có ý định trộm cắp tài sản của gia đình anh D. Khi 3 tên lẻn vào nhà anh D thì chỉ có bà T mẹ anh D ở nhà.Bọn chúng lấy giẻ bịt miệng bà cụ lại và tiến hành lấy tài sản. Khi gần lấy được hết tài sản thì mẹ anh D đã lôi được miếng giẻ bịt mồm và bà cụ kêu cứu, A bèn bóp cổ bà cụ cho đến khi bà ngất đi. Hai tên B và C nhanh chóng lấy nốt chỗ tài sản còn lại và ba tên tẩu thoát. Sau đó, bà cụ đã chết. Công an tỉnh N đã bắt được A, B và C nhưng B và C chỉ thừa nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại về hành vi trộm cắp tài sản chứ không bồi thường về tính mạng cho cụ T vì chúng không giết bà, hành vi giết người chỉ là do một mình A thực hiện. Nhưng quá trình điều tra cho thấy: khi cùng thực hiện tội cướp tài sản trong nhà anh D ( sự chuyển hóa từ trộm cắp sang cướp tài sản), B và C biết được hành vi bóp cổ bà T của A, thậm chí  B còn bảo A là: “ Mày làm thế nào cho bà ấy im đi”. Việc không hành động của B và C lại dẫn đến cái chết của bà T dù A là người trực tiếp bóp cổ bà. Như vậy, ta thấy cả A, B và C đều có lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình bà T về cái chết của bà và về tội cướp tài sản bên cạnh trách nhiệm hình sự đặt ra với cả 3. Hành vi giết người của A tuy không cùng tính chất với hành vi cướp tài sản mà cả ba định thực hiện nhưng hành vi này khi diễn ra có sự tham gia của cả B và C với tư cách đồng phạm về trách nhiệm hình sự và cùng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi cả ba cùng có lỗi cố ý. Bản thân B và C tuy không thực hiện hành vi nhưng chúng mong muốn hậu quả xảy ra, nếu A không là người được giao canh chừng, thì B và C cũng sẽ thực hiện nhưng hành vi cần thiết để bà T không kêu lên được.
5. Một số quy định chưa hoàn thiện của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
 - Một trường hợp đặc biệt về bồi thường thiệt hại là: Người gây ra thiệt hại trong tình trạng dùng chất kích thích gây ra. Điều 615 quy định: 1. Người do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích khác mà lâm vào tình trạng mất nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường./2. Khi một người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất nhận thức và làm chủ được hành vi của họ mà gây ra thiệt hại thì người đó phải bồi thường cho người bị thiệt hại.”
        Những quy định của điều luật tại Điều 615 chủ yếu buộc người gây ra thiệt hại – chính là người sử dụng chất kích thích phải chịu trách nhiệm về hành vi dùng rượu hay chất kích thích của mình, bởi việc dùng  rượu hay chất kích thích đó là do lỗi cố ý của họ. Con người tự chịu trách nhiệm trước hành vi mang tính chất chống đối xã hội của mình đó la hành vi tự đặt mình vào tình trạng say.
         Nhưng khoản 2 của Điều 615 lại quy định về tình trạng say mà người đó không có lỗi: người đó bị một người khác cố ý đẩy vào tình trạng say, với ý định làm cho người dùng chất kích thích không làm chủ được tinh thần và hành động của họ. Nhưng vấn đề đặt ra đó là: nếu người đẩy người khác vào tình trạng say hoặc dùng chất kích thích là do lỗi vô ý thì vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại có đặt ra hay không? Luật chỉ đặt trách nhiệm bồi thường thiệt hại với người gây thiệt hại khi họ dùng chất kích thích, bị mất khả năng điều khiển hành vi của mình, người đã đẩy người đó vào tình trạng mất kiểm soát phải bồi thường do lỗi cố ý, tức là có chủ đích cho người kia lâm vào tình trạng đó. Nhưng thực tế tồn tại là rất nhiều người không có lỗi cố ý đẩy người khác vào tình trạng say rượu hoặc dùng chất kích thích và gây thiệt hại. Ví dụ: trong đám cưới của A, B gặp bạn bè cũ, trong đó có C là bạn thân từ trước nhưng lâu ngày không gặp nhau. C không biết rằng B không biết uống rượu, nhưng do vui vẻ với bạn, C đã ép B uống 3 cốc bia. B say xỉn, lâm vào tình trạng mất kiểm soát hành vi và ý thức. Rồi B  ra về gây tai nạn tổn hại đến sức khỏe của chị H. Vậy C có phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại với hành vi gây thiệt hại của B hay không? Rõ ràng là C không hề có lỗi cố ý, và B lại đang trong tình trạng dùng chất kích thích đến mức không kiểm soát được hành vi. Theo em, trong tình huống này chỉ có B phải chịu trách nhiệm bồi thường hành vi gây thiệt hại cho chị H. Bởi bản thân B có ý thức được rằng mình không uống được bia rượu, lại tự mình điều khiển hành vi gây thiệt hại, còn C chỉ có lỗi vô ý mời B uống rượu, chứ bản thân C không hề có ý thức khiến B lâm vào tình trạng mất khả năng điều khiển hành vi.
         Hơn nữa trong tình huống trên, B vẫn có thể chủ động trong hành vi uống rượu hay dùng các chất kích thích khác của mình. Bản thân B biết được rằng mình không uống được rượu, nhưng hành vi uống rượu đó vẫn là do B tự thực hiện. Vậy nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại là do B.
Vấn đề đặt ra là trong trường hợp : A đến bệnh viện để tiêm thuốc, nhưng y tá trong bệnh viện đó do nhầm lẫn tiêm nhầm cho A thuốc kích thích. A đẫ gây thiệt hại cho chị H trong tình trạng mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai, khi mà A không có khả năng nhận thức và gây thiệt hại khi bản thân A không có lỗi với hành vi tự đặt mìn vào trạng thái không điều khiển được nhận thức và hành vi, còn y tá chỉ có lỗi vô ý?
Theo em, hành vi gây thiệt hại trực tiếp là do A gây ra, để đảm bảo quyền lợi của chị H là người bị hại thì A sẽ là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho chị. Sau đó,  A có thể yêu cầu bệnh viện bồi thường thiệt hại cho A, do hành vi với lỗi vô ý của y tá đã tiêm nhầm thuốc được xử lí theo quy định của Điều …. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra.
       Mục đích của hai điều luật này đều là để tăng cường lợi ích của người bị hại. Trong nội dung điều luật chứa đựng khái niệm về truy cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi suy đoán lỗi của người gây thiệt hại. Yếu tố lỗi được suy đoán trong hành vi không có khả năng loại bỏ trách nhiệm dân sự của người gây thiệt hại hoặc từ hành vi không có lỗi của người gây thiệt hại. Nên nếu người gây thiệt hại muốn không phải bồi thường thiệt hại phải chứng minh được rằng mình không có lỗi hoặc thiệt hại hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại.
      Ví dụ như trong trường hợp Bồi thường thiệt hại do người được giám hộ gây ra mà người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi để xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy phần tài sản của mình để đền bù phần còn thiếu. Bởi vì  trong trường hợp gây thiệt hại theo Điều 606 thì yếu tố lỗi được suy đoán cho người giám hộ. 
-                     Quy định chưa hợp lí về lỗi của người bị thiệt hại:
 Như đã trình bày ở trên, Điều 617 của BLDS quy định về hỗn hợp lỗi mà không có quy định về thế nào là mức độ lỗi. Biện pháp được sử dụng là xác định các hình thức lỗi để xác định mức độ lỗi có nhiều khả năng thiếu tính khách quan, chính vì vậy cần sự hướng dẫn chi tiết của Tòa án nhân dân tối cao để áp dụng pháp luật được chính xác. Lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng rất quan trọng để đảm bảo sự bình ổn cho xã hội nhưng những quy định của BLDS còn rất rắc rối và mâu thuẫn, khó áp dụng trong thực tiễn. Do ảnh hưởng khá lớn của chuyên ngành hình sự nên có rất nhiều trường hợp thực tế, Tòa án xét xử đã cho rằng cứ có lỗi thì người đó phải bồi thường thiệt hại, cũng như áp dụng nguyên tắc hỗn hợp lỗi không chính xác khi cho rằng: bản thân người bị thiệt hại có lỗi thì không thể truy cứu trách nhiệm toàn bộ cho người gây thiệt hại, hay là cho rằng lỗi cố ý sẽ phải chịu trách nhiệm nặng hơn lỗi vô ý…
KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Hiểu rõ lỗi- một chế định của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là rất cần thiết để ngành Tòa án làm việc được hiệu quả hơn, cũng là để cho các chế định của pháp luật mang tính ứng dụng cao hơn, thay thế những quan điểm sai lầm về pháp luật dân sự và các hủ tục lạc hậu trong việc bồi thường và xử lí bồi thường thiệt hại. Chương X của BLDS về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có nhiều điểm đáng lưu ý, đặc biệt là các quy định chi tiết về trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.  Nhưng thực sự những quy định đó còn chứa nhiều điểm bất hợp lí và cần sửa đổi nhiều.